1. VỀ NƠI THỜ HẠT LÚA KHỔNG LỒ
(Người Việt)
- Chùa Thập Tháp ở huyện An Nhơn - Bình Định được nhiều du khách và Phật tử
biết đến bởi chẳng những đây là Di sản văn hóa cấp Quốc gia, mà nó còn là nơi
có rất nhiều sự tích. Trong đó có câu chuyện truyền kỳ về hạt lúa mà cổ tích
Việt Nam đã ghi nhận…
Thập Tháp Di Đà tự - Xem thêm 33 hình về chùa Thập Tháp:
Thập Tháp Di Đà tự còn gọi là chùa Thập Tháp, nằm ở phía Bắc
thành Đồ Bàn (tức thành Hoàng Đế, thành Bình Định), nay thuộc địa phận thôn Vạn
Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn - Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn gần 30
km và cách Quốc lộ 1A khoảng 100m. Chùa Thập Tháp thuộc vào hàng chùa
chiền ra đời sớm ở Đàng Trong, được hình thành từ năm 1677.
Mười ngôi tháp yểm hậu của người Chăm trên khu gò phía Bắc
thành Đồ Bàn đã gãy đổ nhưng còn in dấu trong địa danh xứ sở này, tương truyền
do thiền sư Nguyên Thiều - người sáng lập chùa dùng làm tự danh.
Chùa Thập Tháp nằm trên đồi Long Bích, mặt hướng về
núi Mò O, là vùng Lãng Uyển của vua chúa Chiêm Thành xưa. Nay hãy còn các giếng
vuông và hồ sen xây bằng đá ong to đặc trưng trong xây dựng của người Chămpa.
Thiền sư Nguyên Thiều (1648 - 1715) là vị tổ thứ 33, thiền
phái Lâm Tế Chánh Tông, dừng chân nơi đây trên đường truyền đạo, ngụ trong một
ngôi lều cỏ đơn sơ. Bảy năm sau, 1683, Thiền sư Nguyên Thiều huy động bổn đạo
dùng gạch đá của 10 ngôi tháp đổ của người Chăm dựng ngôi chùa Thập Tháp thay
lều cỏ cũ nát.
bởi lối kiến trúc cổ. hai trụ biểu vuông cao lớn có hai
tượng sư tử ngồi uy nghi làm cổng, nối một vòng cung có hai chữ Thập Tháp. Câu
đối được đề cả hai mặt trong ngoài trụ biểu do hòa thượng Bích Liên ngẫu hứng
sáng tác trong một đêm trăng ngắm hoa sen, tâm trí khoáng đạt mênh mang.
Phía trước dạt dào cùng trời đất bao la: “Nguyệt hạ bất xao
kim tỏa đoạn/ Sơn tiền chỉ nhậm bạch vân phong” (Mây trắng lững lờ vươn núi
biếc/ Khóa vàng buông mở dưới trăng trong). Phía sau ngẫm ngợi về không gian
đạo pháp: “Nhất cảnh địa đăng A Bệ Bạt/ Lục thời thiên vũ Mạn Đà La” (Một nẻo
vị lên A Bệ Bạt/ Sáu thời trời rưới Mạn Đà La).
Bức hoành phi “Sắc tứ Thập Tháp Di Đà tự” treo giữa cửa
chính Chính điện là do chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) sắc ban, hòa thượng
Tổ Ấn - Mật Hoằng trùng khắc lại vào năm 1821, Minh Mạng thứ nhất. Đợt trùng tu
1995 - 1999, thượng tọa Truyền Như đã cúng hai bức hoành “Phật nhật tăng huy”
và “Pháp luân thường chuyển”.
Chuông trống to lớn được đặt ở hai đầu hành lang. Đại Hồng
Chung ra đời từ năm 1893 (Thành Thái thứ 5), do hòa thượng Chơn Châu - Vạn
Thành đúc tạo. Đại Hồng Chung xưa ở chùa Thập Tháp rất lớn, gấp đôi Đại Hồng
Chung hiện tại, mỗi lúc sư cụ thỉnh, tiếng vang 3 huyện.
Nhưng trong loạn lạc của chiến tranh, nông dân lật đổ phong
kiến, người đương thời khiêng chuông qua sông, nặng quá thả rơi xuống vực Bến
Gỗ. Tương truyền, ngày rằm, mùng một, tiếng chuông còn ngân nga lan tỏa cả một
quãng sông dài. Những ai tích thiện lâu ngày, dọn mình nghiêm cẩn, có thể có
duyên với việc nghe hồi chuông giải tỏa phiền não.
Chùa Thập Tháp là nơi hiện tồn nhiều cổ vật giá trị. Các
tượng Phật, Bồ Tát, A La hán, Chuông, Trống, Khánh, Bảng, Mõ, hoành phi, liễn
đối, ngai thờ, các bài Ký minh, Chí… đều có lịch sử lâu đời, lưu truyền qua bao
thế kỷ.
Nhà chùa còn giữ 2.000 bản khắc gỗ dùng in kinh. Di Đà sớ
sao, Kim Cang trực sớ, Pháp hoa khóa chú… là những bộ kinh còn trong ván khắc.
Bộ Địa Tạng kinh do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ cúng dường còn được 1.200
quyển gồm Kinh, Luật, Luận và Ngữ Lục
Truyền kỳ Hạt lúa khổng lồ
Trong quá trình viếng chùa, chúng tôi được nhà sư Mật Hạnh
kể cho nghe nhiều câu chuyện ly kì xung quanh chùa Thập Tháp, mà mở đầu là
chuyện Hạt lúa khổng lồ. Đây là hạt lúa mà cổ tích Việt Nam đã ghi nhận.
Tương truyền, sau khi xây dựng chùa Thập Tháp, Thiền sư
Nguyên Thiều ngày càng thu nhận nhiều đệ tử về đây quy y cửa Phật. “Có thực mới
vực được đạo”, để các đệ tử nhà chùa có lương thực sinh sống hàng ngày, đủ sức
khỏe đi hành đạo, Thiền sư Nguyên thiều mang về từ Trung Quốc một hạt lúa giống
khổng lồ tự động từ nhà chùa lăn ra ngoài đồng. Không cần bón phân, không cần
chăm sóc, thời gian trôi qua, hạt giống tự nảy mầm rồi lớn lên vùn vụt, rồi trổ
bông, đơm gié.
Đến mùa hạ thì lúa vừa chín tới. Mỗi vụ, năng suất của hạt
giống lúa khổng lồ không cho nhiều, chỉ vừa đủ cung ứng lương thực cho các sư
trong chùa và thừa ra một ít để nhà chùa bố thí cho những người dân nghèo khổ
sinh sống quanh vùng. Những hạt lúa được sinh ra cũng khổng lồ như hạt giống
ban đầu. Mỗi người chỉ cần một hạt lúa là đủ lương thực ăn cho cả tháng trời.
Chất lượng gạo rất tốt, bóc vỏ ra là thấy hạt gạo trắng
tinh, nấu lên có mùi thơm dịu như nếp tháng 10. Đến khi lúa chín, các nhà sư
cũng không phải còng lưng ra gặt rồi kĩu kịt gánh lúa về chùa như nông dân bây
giờ. Các nhà sư chỉ cần quét dọn sân chùa thật sạch sẽ, tinh tươm để đón những
hạt lúa từ ngoài đồng tự động lăn về.
Thấy hạt lúa nhà chùa quá huyền nhiệm, đến vụ lúa chín,
nhiều kẻ tham lam trong vùng đang đêm kéo ra ruộng chùa trộm vài hạt vác về
nhà. Về đến nhà kẻ tham lam, hạt giống lúa liền mất đi tính tự lăn ra đồng,
sinh trưởng, tự trổ bông đơm gié và khi chín tự lăn về nhà như ở ruộng nhà
chùa. Đến vụ, những kẻ tham lam kia phải khiêng giống ra thả ngoài ruộng rồi
chờ trong hi vọng sẽ giàu to vì mai này lúa sẽ vào đầy bồ.
Nhưng điều ấy không bao giờ xảy ra, hạt giống của nhà chùa
trong ruộng kẻ tham lam cứ trơ ra như hòn đá tảng rồi cứ thối dần trong mưa
nắng. Thậm chí, những kẻ giàu có trong vùng nổi máu tham, giả làm kẻ bần hàn
đến xin nhà chùa bố thí, vác được hạt lúa về đến nhà mướt mồ hôi nhưng khi vừa
đặt xuống sàn, chua kịp mừng rỡ thì hạt lúa tự nhiên biến thành tro bụi bay vào
trong gió. Vì thế, lúa của nhà chùa chỉ có các nhà sư trồng để tự cung ứng chứ
không truyền ra bên ngoài được.
Trong vụ lúa chín năm ấy, một nhà sư được giao trách
nhiệm quét dọn sạch sẽ sân chùa Thập Tháp để nghinh đón những hạt lúa lăn về
bỗng lơ là, tắc trách. Khi những hạt lúa lăn từ ngoài đồng về, thấy sân chưa
được quét dọn sạch sẽ, toàn bộ những hạt lúa nổi cơn hờn dỗi lăn ra khỏi chùa.
Nhà sư trẻ vừa sợ không gánh nổi trách nhiệm, vừa tức giận
các hạt lúa liền đuổi theo dùng cán chổi quất túi bụi vào những hạt lúa, vừa
đập vừa quát tháo cho hả giận. Đến khi cơn tam bành lắng dịu, nhìn lại thì nhà
sư trẻ thấy cả những hạt lúa chưa bị “đòn” cũng tự động nát vụn, những mảnh gạo
đổ trắng từ sân chùa ra đến đường đi.
Khi ấy, Thiền sư Nguyên Thiều bước ra, không một lời quở
trách mà lại nhẹ nhàng thuyết giảng sâu sắc với nụ cười độ lượng về lẽ sinh
diệt, chân tướng và giả tướng: “Không phải lỗi tại con. Vạn vật hễ duyên mãn
thì sanh, duyên tàn thì diệt.
Những gì mình thấy ở trước mặt không phải là thực thể mà là
giả tướng. Thấy đó không phải là thật có, không còn thấy đó không phải là thật
không. Hãy đi gọi người đem thúng đến xúc gạo!”. Từ ấy giống lúa mất. Nhà chùa
giữ lại một số vỏ lúa này rất trân trọng.
Nhà sư Mật Hạnh nói: “Năm 11 tuổi, khi tôi mới vào quy y tại
chùa Thập Tháp đã được nghe ngài Huệ Chiếu kể cho nghe chuyện Hạt lúa khổng lồ
rồi. Khi quân Pháp chiếm đóng Bình Định, nghe dân gian truyền tụng tại chùa
Thập Tháp có một vỏ lúa to lớn lạ thường, liền rủ nhau đến xem.
Không tin vào mắt mình, người Pháp ngỡ ngàng thán phục rồi
nổi máu thực dân có ý chiếm đoạt. Nhưng khi họ lấy tay đụng đến, vỏ lúa lập tức
tan tành thành bụi trấu bay vung vãi vào mặt bọn thực dân rồi bay về trời. Từ
đó, hạt lúa khổng lồ ở chùa Thập Tháp chỉ còn trong những chuyện kể mà thôi!”.
Theo PLVN
2.TRUYỀN THUYẾT HẠT LÚA
THẦN
Tục truyền, hạt lúa thời
vua Hùng mới dựng nước to như cái thuyền con, khi chín thì tự lăn về nhà. Chỉ
vì chị vợ của quan lang lười biếng và nóng nảy đã làm thần lúa giận bỏ đi. Từ đấy,
những hạt lúa ngày càng bé đi và mỗi lần lúa chín, người dân lại phải gặt lúa về.
Tục truyền ngày xưa khi
vua Hùng mới dựng nước, ven các con sông Thao, sông Đà, sông Lô đất đai màu mỡ,
cây cối tốt tươi. Cư dân Văn Lang vẽ chàm vào người xuống đồng bắt cá về ăn.
Vùng đồng kẻ Gáp, kẻ Vầy cá nhiều vô kể, ăn cá mãi cũng chán. Các cụ già làng
thường thấy trên những bãi bồi hàng năm nở lên những vạt cây tốt nhanh, lá giống
lá mía, thân như thân lau, nở từng bụi sum suê, bông trĩu, quả to, có quả như
cái thuyền con, khi quả chín rụng xuống đất, chim sóc cứ mổ mà ăn không xuể.
Các già làng liền rủ
nhau lấy rìu bổ ăn thử, ăn vào đến đâu thấy dễ chịu đến đấy, nếu đem cho vào ống
nứa đốt như nấu khoai mài, ăn thấy càng thơm ngon. Thấy vậy, dân làng rủ nhau
đi nhặt về để dành ăn vào mùa đông rét mướt.
Nhưng có năm cây vẫn tốt,
lúc ra hoa trời nắng bông lại lép kẹp, bông thì to nhưng cứ giơ thẳng lên trời
như những mũi mác, cả làng cả bản tha hồ đốt cây trầm hương gọi là vía, gọi hồn
hạt cũng không to, bông vàng không trĩu xuống.
Vua Hùng thấy vậy, cùng
các già làng tìm một ngọn núi cao im lặng trèo lên trên đỉnh, đốt hương khấn
vái bốn phương mong Long Quân về phù hộ. Vua Hùng cùng các già làng cầu khấn
mãi từ sáng đến hết đêm. Sáng hôm sau, bỗng nhiên trời nổi sấm sét, mưa từ đâu
như trút nước xuống, rồi từ trong đám mưa có vị thần nói to lên rằng: "Từ
nay trở đi cứ sáng mồng một Tết, nhà nào cũng phải quét sạch nhà cửa cổng ngõ
sân bãi đến giờ "dần" sẽ có lúa thần về mới được ăn, bằng trái ý là
lúa bay đi".
Tan cơn mưa, vua Hùng
và các già làng như tỉnh giấc mộng, nhìn thấy ngay trước mắt mình một hạt lúa
thần thật to bằng chiếc thuyền con.
Từ đó về sau năm nào
cũng vậy, cứ khoảng tháng bảy, tháng tám khi nước các con sông rút đi là tất cả
cư dân Văn Lang, cùng với vua Hùng nghe theo lời thần dạy, ra những bãi bồi ven
sông cày bừa vun xới, chăm chút nâng niu những cây lúa thần. Từ đấy năm nào lúa
cũng về đều đặn, dân cư no lành, vui mừng ca hát, nhảy múa. Nhưng bỗng một năm
có hai vợ chồng nhà quan lang còn trẻ, chị vợ ngủ trưa, khi mở mắt ra những tia
sáng của thần trời đã le lói chiếu qua khe liếp nhà, mới vội vàng cầm chổi đi
quét sân. Chị vợ đang quét thì lúa tới giờ đã lăn từ ngoài bãi bồi lăn về. Hạt
lúa thật to, thật đẹp, nhưng cổng nhà rác quá, lúa không vào được, chị vợ sợ chồng
mắng mới quay ra mắng lúa:
"Lúa gì mà chưa đến
giờ đã mò về".
Lúa giận rồi bỏ đi. Trước
khi đi, lúa còn bảo: "Nhà chị lười quá, từ nay cứ lấy ngoèo tre, lưỡi sắt
cắt từng bông chứ đừng hòng ta lăn về cho mà ăn nữa".
Chị vợ hối hận chạy
theo van nài, nói thế nào cũng không được. Lúa thần bay đi, cư dân Văn Lang lại
lao đao vì thiếu cái ăn. Vua Hùng lại phải cùng các già làng lên đỉnh núi cầu
khấn trời đất, thắp hương suốt ngày đêm, gọi vía lúa, lúa thần vẫn không về.
Còn những cây lúa hằng năm vẫn chăm sóc ở bãi bồi ven sông thì lá bé đi, bông
nhỏ lại chỉ bằng phần nghìn, phần vạn hạt lúa thần và phải lấy cái ngoèo tre,
đóng một miếng sắt (gọi là liềm) đi cắt từng bông một mang về.
Từ đó, hằng năm cứ sắp
đến mùa lúa nở, cư dân Văn Lang và vua Hùng lại cầu khấn thần lúa. Và mỗi khi
nước sông rút đi, lại ra sức chăm sóc những cây lúa ven sông rồi mang ngoèo
tre, lưỡi sắt đi cắt từng bông lúa mang về.
3. HẠT LÚA THẦN
Ngày xửa ngày xưa, hạt gạo rất dễ kiếm, vì
thương con người nên cây lúa tự mọc, tự lớn lên bằng nước của trời. Hạt lúa to
bằng quả dưa hấu, có dẹt thì cũng bằng quả dừa. Đến lúc ngày ra hoa kết quả,
hạt lúa chín tự lăn từ ngoài đồng về nhà, người ta chỉ cần ra sân rước nó đem
cất vào bồ.
Có một người đàn bà kia vừa lười vừa đoảng, lại
thêm một tật ham mê bài bạc. Đến ngày mùa, hạt lúa tự lăn về nhà bà ta đầy cả
sân, đùn lại trước bậc cửa mà không thấy ai ra đón. Người đàn bà trây lười về
đến nhà thấy cảnh tượng trước mắt thì tức tối cầm ngay cây chổi bẩn chuyên quét
nhà ra lùa tất cả những hạt gạo tinh khiết. Mụ còn lại lẩm bẩm chửi rủa, dùng
cán chổi đập vỡ những hạt lúa chậm lăn đi.
Hạt lúa đau đớn và căm giận, mới nguyền rủa
rằng: Từ đây về sau, con người sẽ phải trả giá đắt mới có được cái ăn. Để có
được hạt lúa chín, con người sẽ phải vất vả, đỗ mồ hôi sôi nước mắt ngoài đồng
ruộng suốt mấy tháng trời cùng bao nỗi lo toan nhọc nhằn khác trước thời tiết,
khí hậu, đất đai và nước tưới. Hạt lúa cũng chẳng to bằng quả dưa hấu hay trái
dừa nữa, mà chỉ còn bé tí như hạt lúa bây giờ.
Sự tích hạt lúa Ngày xưa, có một người đàn bà nghèo. Chồng chết sớm, bà ở vậy nuôi đứa con trai duy nhất. Điều đáng buồn là cậu con trai càng được cưng chiều, càng đâm ra hư hỏng, bất hiếu, và không nghe lời mẹ. Bởi vì nhà nghèo, không đủ miếng ăn, người đàn bà cực nhọc trồng bắp, nuôi gà. Có trái bắp nào lớn đủ, bà luộc rồi đưa cả cho con ăn, phần mình ăn chỗ còn thừa lại. Khi nào làm con gà nào, bà để cho con ăn no nê, xong rồi bà kín đáo bòn mót đống xương vụn. Nhưng cậu con trai không thấy điều đó, cậu không thương yêu mẹ, lại còn hỗn xược, ham chơi nữa. Một ngày kia, người đàn bà lâm bịnh nặng. Biết mình sắp chết, bà lo lắng, kêu đứa con trai lại, khuyên nhủ rằng: - Ngày mẹ chết, con sẽ thấy ở chỗ mẹ nằm có một loại hạt nhỏ Con hãy bỏ vào trong chậu đất, đổ nước vào, rồi quảy về hoàng cung sẽ đổi được rất nhiều vàng bạc. Ngày mẹ chết, cậu con trai tìm được trên gối nằm một loại hạt nhỏ bằng đầu ngón tay. Lòng tham lam, cậu liền làm theo lời mẹ dặn, bỏ hạt vào một chiếc chậu nhỏ, rưới nước vào, rồi bỏ lên lưng quảy về phía hoàng cung. Đường về hoàng cung rất xa, phải mất cả sáu, bảy tháng đi đường. Cậu con trai mệt mỏi, tiền hết, lương thực cạn dần. Cậu bắt đầu phải xin từng bữa ăn, và khó khăn lắm mới xin được chỗ trú ngủ qua đêm. Cậu dần dần nhận ra được công lao của mẹ đã cực nhọc nuôi nấng mình trong bấy lâu. Cậu hối hận vì đã đối xử tệ bạc với mẹ. Về tới hoàng cung, lúc cậu bỏ cái chậu trên lưng xuống, ngạc nhiên vì thấy tự lúc nào, trên lưng cậu có một nhánh cỏ trĩu những hạt nhỏ, mầu vàng xinh xắn, mùi thơm thoang thoảng, nấu ra ăn thật bùi. Cậu con trai nhớ thương mẹ, bèn thôi không đem hạt vào cung vua nữa, trái lại cậu mang giống hạt ấy về trồng, rồi phân phát cho mọi người cùng trồng nữa… Các em biết không, ấy là hạt lúa, chính là hạt gạo mà mỗi ngày chúng ta ăn đó. Các em có nghĩ ra tại sao người mẹ biến thành hạt lúa, và tại sao bà nói câu con trai quẩy hạt lúa về hoàng cung không? Hãy hết lòng yêu kính mẹ của mình, các em nhé. Vì không có ai yêu thương các em bằng cha mẹ của các em đâu !
5. CÂU CHUYỆN VỀ HẠT LÚA VÀ BÀN CỜ VUA
Câu chuyện giữa viên quan và nhà vua liên quan
đến hạt lúa (còn gọi là hạt thóc) và bàn cờ. Câu chuyện kể về một tích xưa đầy
thú vị, qua đó cho chúng ta thấy rằng đôi khi có những việc thật nhỏ nhưng
nếu kết hợp lại thì có thể tạo nên sức mạnh to lớn. Và qua đó cũng cho ta một
bài học rằng, đừng bao giờ xem thường những điều tưởng chừng nhỏ nhoi ấy
Thời cổ đại, nước Ấn Độ có một vị vua rất ham
chơi, nhà vua hay cùng các quan đại thần nghĩ ra những trò chơi trí tuệ. Ai
nghĩ được trò chơi hay, liền được nhà vua trọng thưởng hậu, có khi còn được
phong quan tước rất cao.
Một lần, có một vị quan trẻ tuổi nghĩ ra một trò
chơi mới lạ, là cái bàn cờ vua có 64 ô vuông. Trò chơi thú vị vô cùng, thiên
biến vạn hóa, càng chơi càng thích thú và hấp dẫn, lại rất có ích cho việc rèn
luyện nhân cách và trí tuệ. Nhà vua chơi mãi không biết chán, liền cao hứng
muốn thưởng thật lớn cho người phát minh ra nó. Nhà vua liền hỏi viên quan trẻ
tuổi.
Trò chơi do nhà ngươi nghĩ ra, quả thật mới và
rất hay. Nhà ngươi muốn được thưởng như thế nào. Trẫm nhất định sẽ đáp ứng yêu
nguyện vọng của nhà ngươi một cách xứng đáng !
Viên quan trẻ tuổi kia nói không thích vàng bạc
hay châu báu, cũng không muốn được phong chức tước hay lãnh địa. Viên quan tâu
với nhà vua “ Thần chỉ xin bệ hạ thưởng cho bằng những hạt lúa”.
Nhà vua nghe thất vậy, liền cười ha hả, hỏi: nhà
ngươi cần bao nhiêu lúa. Trẫm chấp nhận đáp ứng yêu cầu của nhà ngươi!
Viên quan liền tâu : Bẩm, trên bàn cờ tướng có
64 ô vuông. Bây giờ xin bệ hạ sai người, trong ô thứ nhất bỏ vào 1 hạt lúa. Ô
thứ hai bỏ vào 2 hạt, ô thứ ba bỏ vào 4 hạt. ô thứ tư bỏ vào 8 hạt, cứ như vậy
đến ô cuối cùng. (Tức là ô sau sẽ gấp đôi ô trước)
Nhà vua nghĩ, mỗi hạt lúa bé tí tẹo, cái bàn cờ
có 64 ô cũng bé tí tẹo, theo cách mà viên quan trẻ đề nghị, thì cùng lắm chỉ
tốn vài trăm ký lô gam lúa là cùng, không vấn đề gì. Vì thế vua phán bảo quan
coi kho lương: "Nhà ngươi đi mang mười bao tải lúa lại thưởng cho người
kia!"
Khi quan coi kho lương tính lại số hạt lúa phải
giao cho người được thưởng, bỗng cả mặt biến sắc, vội tâu với nhà vua.
Bẩm bệ hạ, số lúa thưởng cho người kia không
phải chỉ là hàng chục bao tải lúa đâu ạ! Mà có lẽ toàn bộ lương thực của cả
Vương quốc thu hoạch trong một năm cũng không đủ để thưởng cho anh ta. Nói xong
quan coi lương tâu trình số hạt lúa phải dùng làm phần thưởng là.
Cách tính số hạt lúa
Chúng ta thấy bàn cờ vua có 8×8=64 ô vuông và viên quan đã xin nhà vua như sau:
Ô vuông 1: số hạt lúa =1
Ô vuông 2: số hạt lúa =2
Ô vuông 3: số hạt lúa =4=2^2
Ô vuông 4: số hạt lúa =8=2^3
Ô vuông 5: số hạt lúa =16=2^4
Ô vuông n: số hạt lúa =2^n−1
Ô vuông 63: số hạt lúa =2^62
Ô vuông 64: số hạt lúa =2^63
Vậy tổng số hạt lúa bằng
S=1+2+4+8+2^4+⋯+2^62+2^63
Chúng ta có thể rút gọn công thức S như sau.
Nhân hai vế của công thức S với 2, chúng ta có
2S=2+4+8+16+2^5+⋯+2^63+2^64
Trừ vế theo vế với đẳng thức ban đầu
S=1+2+4+8+24+⋯+2^62+2^63
chúng ta có
S=2^64−1 = 18,446,744,073,709,551,615 (hạ t lúa)
(Xem kết quả của 2^64 - 1: http://www.wolframalpha.com/ input/?i=2^64-1 )
(Tóm tắt cho dễ hình dung là theo tính toán, số hạt thóc là gần 18,5 tỷ tỷ hạt, nặng khoảng 641 tỷ tấn, trong khi ngày nay, toàn thế giới mới chỉ sản xuất được khoảng 2 tỷ tấn lương thực mỗi năm)
Nhà vua nhìn con số dài ngoằng, cũng không hiểu
nó là bao nhiêu tấn tạ. Viên quan coi kho lương thấy vậy, vội tâu.
Bẩm! Một mét khối lúa có chừng 15 triệu hạt, thì
số hạt lúa phủ kín bàn cờ theo cách tính kia sẽ là 1.200.000.000.000 mét khối,
tức là sản lượng lúa của toàn thế giới sản xuất ra được chỉ trong khoảng 1000
năm vẫn còn chưa đủ số lượng để thưởng!
Nhà vua mặt xám như tro, chẳng lẽ lời vua nói là
chuyện đùa? Nhà vua vội hỏi quan coi lương.
Vậy phải làm thế nào đây ? Nếu ta quyết định
thưởng theo yêu cầu, thì Vương quốc vĩnh viễn mắc nợ người ta, không biết bao
giờ mới trả được hết nợ. Còn nếu không thưởng như vậy, thì Trẫm là kẻ không
biết giữ lời hứa, còn mặt mũi nào trước bàn dân thiên hạ nữa !.
Viên quan coi kho lương của nhà vua nghĩ một lúc
lâu rồi tâu.
Bẩm có một cách rất đơn giản. Xin bệ hạ yêu cầu
anh ta tự mình đếm số hạt lúa của từng ô cho thật chính xác, không được thừa
thiếu một hạt. Nếu đếm sai sẽ khép vào tội lừa dối tham lam để trị tội.
Nhà vua lại hỏi, giả dụ anh ta đồng ý, đếm đủ số
hạt lúa, thì sẽ mất bao nhiêu thời gian để đếm xong ?
Viên quan coi kho lương nhẩm tính một lúc lâu
rồi tâu.
Giả dụ mỗi giây đồng hồ đếm được hai hạt, mỗi
ngày đếm liên tục 12 giờ không nghỉ, thì sau mười năm mới đếm được 20 mét khối
hạt lúa. Còn nếu đếm hết số hạt lúa được thưởng thì cần tới 290.000.000.000 năm
hay 290 tỉ năm, nhưng anh ta sẽ sống được mấy chục năm nữa? Hơn nữa ngày nào
cũng ngồi đếm số hạt lúa như vậy, liệu anh ta có thể chịu đựng và sẽ kéo dài
được mấy năm ? Nói lại coi chừng chỉ vài năm là tổn thọ không bỏ cuộc cũng kiệt
sức mà chết. Ngừng một lúc, viên quan coi kho lương tâu tiếp.
Vì thế, theo thần nghĩ anh ta ra cách yêu cầu
thưởng lúa như vậy, không phải vì thực tế muốn nhận được số lúa kia, mà là muốn
chứng minh rằng trên đời này không còn có ai thông minh hơn anh ta mà thôi, Nhà
vua nghe xong, cảm thấy hết sức phấn khởi, liền nói với viên quan coi kho
lương.
Xem ra, khanh còn thông minh hơn anh ta nhiều!
Trị quốc cần những người tài giỏi, thì quốc gia mới giàu mạnh. Vì thế Trẫm
quyết định phong cho cả hai khanh chức Tả, Hữu tể tướng, cùng giúp Trẫm trị vì
đất nước, sao cho quốc thái dân an!
Cối xay lúa
|
Cối xay lúa
|
Cối xay lúa
|
Cối xay lúa
|
Cối giã gạo
|
Máy xay lúa |
Máy xay lúa |
Cối giã gạo
|
Cái giần gạo
|
Thúng đựng gạo (cái lớn
nhất)
|
Rổ, rá, nong, nia, thúng, mủng,
giần, sàng
|