Sunday, February 25, 2024

TRƯỜNG SƯ PHẠM CẤP GIÁO HỌC BỔ TÚC BAN MÊ THUỘT



Trường Sư phạm cấp Giáo học Bổ túc Ban mê thuột được chính thức thành lập từ năm 1970 (tách ra từ lớp Sư phạm Bổ túc đặt tại trường Sư phạm Cao Nguyên), căn cứ Nghị định số 434-6D/PC/NĐ ngày 09/3/1970, là một trong 15 trường trên cả nước đào tạo GHBT vào thời điểm đó. Cũng xin nói thêm BMT cũng là 1 trong 5 địa phương đầu tiên có trường SP: Sài Gòn 1955, Long An 1956, BMT 1957, Vĩnh Long 1961, Quy Nhơn 1963, chứng tỏ chính phủ rất quan tâm đến việc giáo dục, khai hóa cho người dân trên vùng đất còn hoang sơ này.

Hiến pháp VNCH 1967 ghi rõ: Văn hóa Giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản “Dân tộc, Khoa học và Nhân bản”.

Căn cứ trên tinh thần đó Bộ Giáo dục khẳng định: “Nền giáo dục là một cái cây mà Tiểu học là cái rễ. Sư phạm Tiểu học có thể được coi là chìa khóa của sự phát triển giáo dục Tiểu học”.

Chính vì vậy mặc dù hàng ngũ giáo viên lúc bấy giờ còn thiếu cả về số lượng và trình độ chuyên môn, việc tuyển sinh và đào tạo vẫn vô cùng khắt khe. Lúc đầu, điều kiện thi vào GHBT là phải có bằng Trung học Đệ nhất cấp. Thời gian học 3 năm gồm có 2 phần: văn hoá tổng quát dạy chương trình 3 năm Tú tài và các môn chuyên biệt về Sư phạm.

Từ năm 1962 nâng điều kiện lên Tú tài 1 và 1973 lên Tú tài 2, khóa học chỉ còn hai năm, tốt nghiệp với ngạch Giáo Học Bổ Túc. Kể từ 1965 tất cả các trường Tiểu học được đổi thành Tiểu học Cộng đồng mở đầu cho cải tổ toàn bộ nền giáo dục nên trong chương trình học có thêm môn Giáo dục cộng đồng.

Trong chương trình đào tạo mới này giáo sinh được nâng cao trình độ chuyên môn với các môn Quốc văn, Sinh ngữ, Toán, Vẽ, Thủ công, Nhạc, Dụng cụ giáo khoa và thính thị, Thể dục, Hoạt động thanh niên, Nữ công gia chánh, Y tế học đường để có đầy đủ kiến thức phục vụ cho việc giảng dạy. Ngoài ra còn có những môn chuyên biệt của ngành Sư Phạm như Sư phạm lý thuyết, Sư phạm thực hành, Tâm lý giáo dục, Luân lý chức nghiệp, Giáo dục cộng đồng, Các vấn đề giáo dục, Triết lý giáo dục, Quản trị học đường, Kinh tế chính trị nhằm đào tạo ra những người thầy tận tâm, gương mẫu, luôn sâu sát với thực tế tại địa phương xứng đáng với sự tin yêu, kính trọng của toàn xã hội.

Để hiểu rõ hơn về vị trí của cấp Giáo học bổ túc trong hàng ngũ Giáo chức thời VNCH, xin xem bảng quy định mức lương dưới đây:

-Giáo viên Tiểu học - chỉ số lương ban đầu 250.

-Giáo học bổ túc - chỉ số lương ban đầu 320 (sau tăng lên 380)

-Giáo sư Trung học Đệ nhất cấp - Chỉ số lương khởi điểm là 400.

-Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp – chỉ số lương ban đầu từ 430 (sau tăng lên 470)

-Giáo sư Đại học – chỉ số lương từ 640 đến 690

Khi mới thành lập, Trường tọa lạc trên đại lộ Tự Do BMT. Cơ sở vật chất còn khá khiêm tốn, tất cả đều là nhà gạch lợp tôn, một văn phòng, một dãy nhà dọc 4 phòng học, một dãy nhà ngang làm hội trường và nhà kho, một sân bóng chuyền.

Trường mới tuyển sinh được 5 khóa và chỉ có 3 khóa đã tốt nghiệp còn 2 khóa đang học dở dang.Từ khóa đầu tiên, điều kiện thi tuyển vào Trường là phải có văn bằng Tú tài 1, từ khóa 4 nâng lên Tú tài 2 nhằm nâng cấp trình độ đào tạo lên ngang hàng các trường Đại học Sư phạm Tiểu học.

Danh sách Thầy Cô và các môn học:

1. Thầy Lê Xuân Đích: Hiệu trưởng

2. Thầy Vương Quang Thọ: Hiệu trưởng, Giáo dục cộng đồng, Triết Tây

3. Thầy Lê Xuân Lập: Tổng giám thị

4. Thầy Hồ Văn Cứ: Tổng giám thị, Toán ứng dụng

5. Thầy Nguyễn Đình An: Anh văn

6. Thầy Thái Bình An: Luân lý chức nghiệp

7. Thầy Nguyễn Đình An:  Quốc văn

8. Thầy Nguyễn Văn Ba: Hội họa

9. LM. Đặng Sĩ Bình: Tâm lý giáo dục, Triết Đông

10. Thầy Nguyễn Giõng: Quốc văn, Các vấn đề giáo dục

11. Đại Đức Thích Nguyên Hạnh: Quốc văn

12. Đức Cha Nguyễn Văn Hòa: Âm nhạc

13. Cô Trần Quế Hương: Sư phạm lý thuyết, Sư Phạm thực hành, Nữ công gia chánh

14. Thầy Nguyễn Khánh: Giáo dục cộng đồng

15. Thầy Lê Viết Lâm: Kinh tế chính trị

16. Thầy Nguyễn Huy Quang: Hội họa

17. Thầy Phú Thành Sang: Pháp văn

18. Thầy Trương Như Thanh: Hoạt động thanh niên, Thể dục

19. Thầy Chu Duy Thiều: Các vấn đề giáo dục

20. Thầy Cung Kim Trạch: Luân lý chức nghiệp

21. Thầy Trương Công Trứ: Dụng cụ giáo khoa và Thính thị

22. Thầy Trương Vinh Toán

Sau thời gian học, giáo sinh phải trải qua kỳ thi đánh giá năng lực, được xếp hạng theo điểm số và nhận Chứng Chỉ Khả Năng Sư Phạm. Tại Trường, các anh chị được tự do lựa chọn địa phương nơi mình sẽ phục vụ và trực tiếp nhận Sự vụ lệnh. Có 4 tỉnh để chọn: Darlac, Pleiku, Kontum, Quảng Đức. Tại các tỉnh, sẽ được chọn trường. Mọi sự lựa chọn đều công khai, minh bạch theo thứ tự ưu tiên qua vị thứ tốt nghiệp.

Xin cảm ơn các anh chị đã giữ được những tài liệu, kỷ vật liên quan và cho phép đăng lại ở đây. Vừa là kỷ niệm, vừa là chứng tích của thời kỳ chúng ta được sống trong một môi trường xã hội trong sạch, nhân tài được trọng dụng. Niềm mong ước của bao thế hệ đi sau.

Tài liệu tham khảo:

Giới thiệu tư liệu hình thành Trường Sư Phạm Saigon. GS Nguyễn Văn Linh.

https://supham-saigon.weebly.com/

Các trường Trung học và Cao đẳng ở tỉnh Bình Định trong thời VNCH. GS Đào Đức Chương.

https://cuongde.org/.../5287-cac-truong-trung-hoc-va-cao...

Chính sách đào tạo Giáo chức Tiểu học ở Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Nguyễn Kim Dung.

https://vjol.info.vn/index.php/khxhvn/article/view/43819

Ký ức vụn về chuyện học ở Miền Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa (Kỳ 3) Nhà Nghiên cứu Lịch sử Lê Nguyễn.

https://m.trithucvn.co/van-hoa/ky-uc-vun-ve-chuyen-hoc-o-mien-nam-thoi-de-nhat-cong-hoa-ky-3.html?_gl=1*obpsym*_ga*MTY4NDU1NTk4Ni4xNzAxNjU0NjI1

Nguyễn Danh Trung, Khóa 4

Source:

https://www.facebook.com/groups/2030339137217939/?hoisted_section_header_type=recently_seen&multi_permalinks=3585705988347905



50 NĂM SƯ PHẠM BAN MÊ

Thơ: Anh Nguyễn Danh Trung - Khóa 4
Nhạc: Anh Nguyễn Trung Hiếu KT - Khóa 1

.

.

.

.

.

Trần Kim Loan (K5) chú thích từ trái qua phải:

Hàng đứng: Đặng Ngọc Pháp (lớp B), Bùi Văn Minh (B), Huỳnh văn Huệ (A), Nguyễn thị Nhung (B), Trần thị Quý (A), Thầy Nguyễn Khánh, Lê thị Mai Loan (B),Thầy Nguyễn Giõng, Nguyễn Thị Hoá (B), Quách Thi Bằng (A), Vũ Hoàng Lan (A), vợ bạn Dương, Vũ Thị Tuyển (A),Trần Thục Quyên (A),Phạm Thanh Hoàn (A).

Giữa: Nguyễn Ngọc Phương (A), Vũ Văn Sơn (B)

Hàng ngồi:

Nguyễn Văn Hà (A), Lê Thị San (A), Nguyễn Thị Lương (B), Trần Kim Loan (A), Phùng Tất Đạt (A), Võ Văn Phương (A), Vợ Phương, Huỳnh Văn Dương (B), Trần Đình Hy (B), Từ Đức Minh (B), Hoàng Trọng Phúc (A), Trần Thế Nghĩa (A)

.