Sức mạnh của văn hóa và văn hóa của sức mạnh
Trong những thập niên gần đây, nhân chủng học là ngành khoa học thực hiện được nhiều tiến bộ vượt bực trong công trình nghiên cứu để tìm đáp số cho các vấn đề liên hệ đến đời sống con người.
Văn hóa là khái niệm chủ yếu của nhân chủng học.Tuy nhiên đến nay, các học giả vẫn chưa hoàn toàn đồng ý với nhau về định nghĩa chung của văn hóa.
Vấn đề định nghĩa Văn hóa
Năm 1952, trong tác phẩm “Cultures: A critical review of concepts and definitions “, Kroeber và Khuckhohn thử tổng kết và đã liệt kê được...164 định nghĩa khác nhau trên thế giới. Trước thập niên 60, đặc biệt có hai định nghĩa được coi như sáng giá nhất, do hai nhà nhân chủng học trứ danh đề nghị: Edward B. Tyler, gốc Anh và K.H. Lowie, gốc Mỹ. Theo Tyler, văn hóa là “những năng khiếu và tập quán thụ đắc bởi con người với tư cách một thành viên của xã hội “. Còn Lowie thì ông cho rằng văn hóa là “tất cả những gì một cá nhân thụ đắc được từ xã hội của mình như một di sản của quá khứ chớ không phải do các cố gắng của bản thân “. Mới đọc thoáng qua, hai định nghĩa này có vẻ giống nhau nhưng thật sự, hoàn toàn khác biệt. Đúng vậy, Tyler đồng hóa văn hóa với văn minh, civilization, tức là giai đoạn con người đạt tới khi thoát ra khỏi tình trạng man rợ.Trái lại, theo Lowie, văn hóa đồng nghĩa với tập tục, traditions, tức là cái vốn kiến thức được một nhóm người thụ động thừa hưởng từ những thế hệ trước chuyển lại. Mối liên hệ giữa hai định nghĩa vừa nói là trong cả hai, văn hóa được xem như ngoại lai, external, đối với con người. Nói cách khác, văn hóa là một thực thể sống động, a living entity, có hiệu năng khiến con người hành động theo một đường lối nào đó và đồng thời, bao hàm một tính cách bất khả cưỡng lại. Một khi đã thụ đắc một nền văn hóa, theo Tyler và Lowie, thì phải bám chặt và dính liền vĩnh viễn với hệ thống văn hóa ấy. Căn cứ vào khái niệm này, người ta đã phân biệt, thí dụ, văn hóa Đông phương, văn hóa Tây phương..v..v..
Kể từ thập niên 70, quan điểm trình bày trên bị nhiều thức giả kích bác sôi nổi, trong số này có Clifford Geertz, tác giả của quyển sách nổi danh “The interpretation of cultures “ (N.Y.:Basic books,1973). Văn hóa không còn là một khái niệm được xem như phân ranh và thuần nhất nữa. Văn hóa được phân tích - theo ngôn từ của Geertz - như "những màng tơ ý nghĩa do chính con người dệt chằng chịt xung quanh mình để rồi bị vướng mắc trong đó, webs of significance which man himself has spun and in which he is suspended". Khuynh hướng mới cho rằng công tác nghiên cứu văn hóa là một ngành khoa học có tính cách giải thích, hướng về việc tìm ý nghĩa, search of meaning, hơn là một môn khoa học thực nghiệm, nhằm mục phiêu khám phá định luật, search of law.
Tại Việt nam, trong quyển sách “Việt Nam Văn Hóa Sử Cương“, xuất bản năm 1938, Đào Duy Anh cho rằng văn hóa không chỉ bao gồm những học thuật tư tưởng mà còn liên hệ đến tất cả các phương tiện sinh hoạt của con người. Bởi thế mọi dân tộc, văn minh hay dã man, đều có văn hóa riêng, văn hóa của các sắc dân khác chỉ khác nhau về trình độ cao thấp mà thôi. Định nghĩa của Đào Duy Anh khá dài dòng, điều này dễ hiểu vì khái niệm văn hóa không giản dị.
Trong tác phẩm “Văn hóa Sử Quan“, học giả Hoàng Văn Chí sai lầm khi phân biệt Văn hóa và Văn nghệ và ông đã tạm đề nghị định nghĩa văn hóa như “lối sinh hoạt và suy nghĩ“ của nhân loại.
Gs Nguyễn Khắc Kham, tác giả của bài khảo luận “Đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam“, nhận định Việt Nam có một nền văn hóa “đa nguyên mà lại có đặc tính nhất nguyên“.
Đa nguyên vì kết tụ nhiều văn hóa khác nhau: văn hóa thạch khí Hòa bình, thạch khí Bắc sơn, đồng đen Đồng sơn; văn hóa Trung quốc dưới hình thức Khổng và Lão giáo; văn hóa Ấn độ xuyên qua Phật giáo; văn hóa Tây phương do ảnh hưởng của Thiên chúa giáo; tư tưởng học thuật Âu Tây....
Nhất nguyên, vì Việt Nam đã thành công dung hợp các trào lưu văn hóa nói trên để khởi sắc phong phú. Theo Gs Kham, văn hóa Việt Nam biểu hiện dưới ba hình thức chính yếu: Ngôn ngữ văn tự, Thơ văn và Nghệ thuật.
Khá đông học giả Tây phương - đa số là người Pháp - như F. Dufell, Ernest Gourou, Charles Robequain, Jean R. Guion...đã nghiên cứu sâu sắc thực chất và đặc tính của nền văn hóa Việt. Gần đây, trong bài khảo luận công phu “Les traits fondamentaux de la civilisation vietnamienne “ đăng trong tập san Văn Lang, Paris, tháng chạp 1995, tác giả Thái Văn Kiểm đã phân tích và tổng kết các đặc tính vừa nói: Ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử, khí hậu và địa lý chính trị, nhu cầu và ý chí đấu tranh liên tục để tồn tại, sự nể trọng giá trị tinh thần và đạo lý, bẩm tính say mê thi phú, tập quán dân chủ lâu đời, quy chế tự trị làng xã......
Mối liên hệ giữa Văn hóa, Ý thức hệ, Kỹ thuật và Tự do.
Giới nhân chủng học quốc tế ngày nay xem tác phẩm “Cultural forces in World politics “ của Gs Ali A. Mazrui, một học giả gốc Kenya, Phi châu, xuất bản năm 1994 tại Luân đôn, (James Currey Publishing Co), như một quyển sách gối đầu vì có những nhận định độc đáo về văn hóa. Một trong lập luận của Mazrui là sau Đệ nhị thế chiến, thế giới bị phân cắt bởi hai lằn ranh:
1) Lằn ranh Đông - Tây, về ý thức hệ, giữa hai khối Cộng sản và Tư bản ganh đua với nhau trong lãnh vực chính trị và quân sự.
2) và lằn ranh Nam - Bắc, về mặt kỹ thuật, giữa các quốc gia phát triển và những nước kém mở mang. Trong khi Đông và Tây cạnh tranh để đạt đến những khả năng phá hủy mới thì Nam và Bắc lại bị cách biệt về trình độ sản xuất.
Mazrui chứng giải rằng ý thức hệ, ideology và kỹ thuật, technology, cả hai đều bắt nguồn từ văn hóa, culture. Mặt khác, theo Mazrui, sự phân cách giữa Đông và Tây về ý thức hệ có tính cách giao thời hơn sự sai biệt kỹ thuật giữa Bắc và Nam. Thí dụ điển hình là Mikhail Gorbachev, một lãnh tụ phương Bắc, đã có thể thay đổi bằng hành động đơn phương bầu không khí giao hữu Đông - Tây và khởi xướng phần nào việc hội tụ giữa hai khối này trên phương diện văn hóa và tư tưởng. Tuy nhiên, không dễ gì tìm ra một nhà lãnh đạo cải cách trong một xứ đơn độc để thu hẹp lại cái hố kỹ thuật phân chia Nam và Bắc. Đúng vậy, thay đổi văn hóa để tăng tiến kỹ thuật phức tạp hơn nhiều việc điều nghiên văn hóa để hiệu chỉnh ý thức hệ.
Sau Đệ nhị thế chiến, chính sách ngoại viện của hai đại cường Nga Mỹ đã phản ảnh sự cạnh tranh tư tưởng và chiến lược giữa Đông và Tây. Hoa Thịnh Đốn và Mạc Tư Khoa viện trợ các nước của Thế giới đệ tam không phải vì lý do nhân đạo hay tinh thần đoàn kết quốc tế mà vì nhu cầu bảo vệ an ninh tại những điểm nóng có thể gây tranh chấp. Việt Nam, Cuba và Israel là 3 trong nhiều điểm này. Liên hệ Moscou - La Havana, thuần túy chiến lược, đã tan rã gần như hoàn toàn khi chế độ Marxist sụp đổ tại Nga và khi Yeltsin xích gần Tây phương. Trái lại Do thái khắng khít với Hoa kỳ hơn lúc nào hết vì bang giao giữa hai nước đặt trên nền tảng văn hóa sít sao, không kể những quyền lợi kinh tài và nhu cầu chính trị chằng chịt.
Một vấn đề hệ trọng: Mối liên hệ giữa văn hóa và sự tối tân hóa kỹ thuật. Để canh tân kỹ nghệ, có cần Tây phương hóa về mặt văn hóa hay không? Sự phát triển vượt bực của Nhựt bổn đã trả lời hùng hồn câu hỏi này. Từ năm 1868, Nhựt quyết định rằng một quốc gia có thể đổi mới kỹ nghệ mà không cần du nhập văn hóa ngoại bang. “Kỹ nghệ Phương Tây, văn hóa Nhựt bổn “là khẩu hiệu và bí quyết thành công của xứ Phù tang ngày nay.
Trong khi đó, nhiều nước thuộc Đệ tam thế giới ở Á châu, Phi châu và châu Mỹ La tinh thất bại não nề vì áp dụng quá máy móc những sai lầm thay vì lợi điểm của chủ thuyết tư bản.Thật vậy, họ hoan hô lợi tức như động cơ của mọi hành động nhưng lại không hưởng ứng tinh thần kinh doanh. Họ thèm khát thụ đắc nhưng không chấp nhận rủi ro để sáng tạo. Họ say mê xử dụng máy móc thiết bị nhưng không ưa chế tạo. Họ thích thú biểu diễn để phô trương nhưng không chịu khó thao luyện trong kỷ luật. Họ mang đồng hồ đắt giá nhưng không màng xem giờ để đúng hẹn. Họ tiêu thụ như điên nhưng không học hỏi kỹ thuật để sản xuất theo lối Tây phương....Ngoài ra, một số đông quốc gia này còn mang nặng tàn tích của những quái đản thời thuộc địa cũ lưu lại: đô thị hóa nhưng không kỹ nghệ hóa ; phương thức giáo dục từ chương, với sự vắng bóng của chương trình tu nghiệp sản xuất; lòng tham lam kiểu tư bản nhưng lại thiếu kỷ luật tư bản; thế tục hóa và hạ thấp giá trị của tín ngưỡng mà không đề cao khoa học...
Thảm kịch hiện đại là trong khi cái hố ý thức hệ phân chia Đông và Tây thu hẹp thì sự chia cách kỹ thuật giữa các quốc gia phát triển (nhóm G7, Thị trường chung Âu châu, khối APEC...) và các nước chậm tiến lại mỗi ngày thêm mở rộng, tạo ra một thế giới lưỡng đầu chênh lệch và vì thế, mất thăng bằng một cách nguy hại. Sự trạng này bộc lộ rõ rệt tại diễn đàn của Liên Hiệp Quốc.
Để kết thúc, Mazrui chủ trương tiếp tục đấu tranh để giảm trừ trạng thái cách biệt - hệ trọng nhất là cách biệt về khả năng, gap in skills - giữa hai khối Nam Bắc của địa cầu. Sự cách biệt này phát sinh từ những yếu tố văn hóa khó đo lường và những tất yếu của lịch sử. Muốn đạt kết quả, cần gây ra một sốc văn hóa sáng tạo, a creative cultural shock, vì “văn hóa là trung tâm điểm của của bản chất quyền lực trong bang giao quốc tế, Culture is at the heart of the nature of power in international relations“. Đi xa hơn nữa, Mazrui cả quyết rằng “một nền văn hóa hùng mạnh là một cái khiên bảo vệ Tự do một cách hữu hiệu, The power of culture is a protective shield for freedom “Văn hóa không thể tách rời khỏi Tự do. Văn hóa thiếu Tự do không còn là Văn hóa. Văn hóa cần Tự do để tồn tại và phát triển”.
Văn hóa của sức mạnh
Biên cương của văn hóa quốc tế ngày nay di động với một tốc lực vượt quá dự đoán của mọi người vì những phương tiện truyền thông điện tử phát triển mau chóng, mạng lưới siêu xa lộ internet không ngớt bủa rộng và mối giao thương gia tăng phi mã giữa các lục địa. Những bức màn sắt và màn tre nối tiếp sụp đổ. Các chính quyền chuyên chế hốt hỏang vì không ngăn chận nổi làn sóng tư tưởng ngoại lai tràn ngập đại chúng. Không một xứ nào - đại cường hay tiểu quốc - có thể bế môn tỏa cảng để tránh tiếp xúc với thế giới bên ngoài dưới hình thức này hay theo điều kiện nọ: Du khách, thương gia, di cư, viện trợ, đầu tư, trao đổi văn hóa, sinh viên và chuyên viên..v..v..đặt nhiều nhịp cầu khó thể cắt đứt. Luật lệ đàn áp khắt khe, biện pháp kiểm tra chặt chẽ và thái độ "cảnh giác“ của nhân viên công quyền không còn hiệu nghiệm để giúp một chính phủ độc tài thoát khỏi nguy cơ bị chống đối.
Giới nhân chủng học đã dặt ra một danh từ mới: ”văn hóa chính trị, culture of politics“. Ý nghĩa là một khi văn hóa bị vi khuẩn Dân chủ và Tự do đột nhập thì chính trị bị ảnh hưởng trực tiếp và buộc phải canh tân.Tại Bắc Âu, một trường phái hữu danh gồm có Kroeber và Kluckhohn, đã tỏ ra hoài nghi đối với khái niệm văn hóa. Trong bài khảo luận nhan đề “Culture: A critical review of concepts and definitions“, hai thức giả này cho rằng với sự gia tăng mạnh và mau của mọi mối liên hệ giữa các khối quốc gia và các xã hội, những dị biệt văn hóa sẽ giảm thiểu và trong tương lai, sẽ được san bằng. Tiến xa hơn nữa, họ quan niệm Văn hóa chung quy chỉ là nếp sống và đường lối tư tưởng áp đặt cho quần chúng bị trị bởi một chế độ, triều đại hay đế quốc độc tài tồn tại nhiều năm. Mục tiêu của sự áp đặt này là để chính thức hóa quyền lực của cấp lãnh đạo và ép dân chấp nhận nguyên trạng status quo. Kroeber và Kluckhohn nêu ra trường hợp của nhiều nền văn minh sáng chói tại Đông và Tây phương, như Hy lạp và La mã, mà ảnh hưởng trên địa cầu kéo dài nhiều thế kỷ trong lãnh vực triết lý, khoa học, văn nghệ và chính trị.Đến nay, người ta vẫn còn nhắc đến thời Hoàng kim La tinh, thế kỷ Hy lạp cổ đại, nền Hòa bình Pax Romana, Khoa học nhân văn La Hy (les humanités gréco latines), khái niệm về vũ trụ nhân sinh của Socrate, Aristote, Eschyle và Sénèque. Đế quốc cổ kính Anh (nơi mà “mặt trời không ngả bóng“, theo một câu thơ của Rudyard Kipling ) và gần đây, đế quốc nguyên tử Hoa kỳ đã và đang thay đổi không ít bộ mặt sinh hoạt của một phần lớn thế giới. Quan điểm Kroeber- Kluckhohn, lập dị và độc đáo, đến nay vẫn là đề tài tranh luận sôi nổi trong ngành nhân chủng học.
Các nhà nghiên cứu đã mổ xẻ dưới nhiều khía cạnh nền văn minh của Hoa kỳ, một quốc gia thành lập năm 1775. Nơi chương 20 nhan đề “Ngày mai đã bắt đầu từ hôm qua, Tomorrow began yesterday “trong tác phẩm “A country made by war - The story of America ' s rise to power “ (nxb Random House, NY, 1987), Geoffrey Perret phân tích uy thế và đặc tính của văn hóa xứ này. Mỹ là một nước tạp chủng, đa văn hóa, của nhiều thế hệ di cư đến từ mọi phương trời để tìm Tự do và Cơm áo. Vì thế, trên phần đất này, các sáng kiến và ý tưởng cấp tiến dù dị biệt được đón nhận trong tinh thần cởi mở và khoan dung. Kinh tế phong phú, khoa học siêu đẳng, truyền thống dân chủ đa nguyên vững chắc và khả năng quân sự vô địch đã bảo đảm cho Hoa kỳ chiếm được một vị thế lãnh đạo bất khả cạnh tranh, ít nữa cho đến ngày hôm nay. Sức mạnh vật chất này - mà đồng đô la là biểu tượng thường nhật trong con mắt của thế giới - đã giúp Hoa kỳ sáng tạo, phát triển và xuất cảng một nền văn hóa sống động, đa sắc và ồn ào, lắm khi bị một số quốc gia của Cựu Thế giới xem như nông cạn và chê bai với những danh từ biếm nhẽ “văn hóa coca cola, văn hóa hamburger, văn hóa trọc phú”. Đánh giá văn hóa Mỹ với một cái nhìn bên ngoài, qua phim ảnh đồi trụy và cường bạo, nhạc jazz và be bop giựt gân, nếp sinh hoạt vội vã hưởng thụ và thức ăn fast food, hoạt cảnh đồng tình luyến ái..v..v.. là một phán xét hấp tấp, dễ dãi và cục bộ. Chân giá trị của một nền văn hóa cần được thẩm định căn cứ trên những đóng góp thiết thực vào gia tài trí tuệ của dân tộc liên hệ, nói riêng và của nhân loại, nói chung. Văn hóa Mỹ đã và đang góp phần không nhỏ cho kho tàng thế giới về mặt khoa học kỹ thuật, văn nghệ, kinh tài và tư tưởng chính trị. Đóng góp quý giá nhất không thể phủ nhận là việc Hoa kỳ giúp, trực tiếp và gián tiếp, vãn hồi và duy trì hòa bình trên địa cầu để bảo vệ văn hóa của các xứ khác không bị hủy hoại vì chiến tranh.
Kết luận
Như đã thấy trên đây, những yếu tố khách quan và đặc biệt, nhiều phán xét về giá trị được áp dụng khi cần phân tích Văn hóa theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp. Thực tế, văn hóa quả là một tấm gương muôn mặt và muôn sắc phản chiếu nếp sống của một dân tộc. Bởi thế không thể coi văn hóa như một ý niệm hoàn toàn trừu tượng của trí tuệ. Vai trò của văn hóa là một vũ khí đa năng, đa hiệu và một phương tiện hành động để thể hiện những giấc mơ cao quý của con người, trong số đó có giấc mơ hòa bình, tự do, dân chủ và hạnh phúc.
Văn hóa và văn nghệ cần ngẫu hứng và sáng tạo để tồn tại và phát triển. Chỉ có Tự do mới bảo đảm được hai nhu cầu thiết yếu này. Bá quyền chính trị không chấp nhận tự do và luôn luôn tìm cách khống chế văn hóa. Trong nhãn quan của kẻ độc tài, văn hóa tự do là văn hóa phản động.
Trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam, nhà cầm quyền CS nơm nớp lo sợ sự tấn công của văn hóa đối kháng có tổ chức. Qua siêu xa lộ điện tử, tư tưởng của những người biệt kích cầm bút có thể đột nhập lãnh địa của đối phương dễ dàng và mau chóng hơn cả tàu bò và B 52 để khích động quần chúng. Cần đặt kế hoạch thực tiễn để đánh tới tấp và liên tục vào kẽ hở “cởi mở“ của chế độ Hà Nội. Đến nay, Tổng bí thơ Lê Khả Phiêu không ngớt kêu gọi các cấp cán bộ đề cao cảnh giác để chống chiến dịch đả phá Chính phủ qua phát thanh, báo chí và truyền hình. Gần đây, Phiêu còn khiển trách báo giới trong nước chệch hướng, hủ hóa và bị mua chuộc.
Cộng sản Đông Âu sụp đổ không vì bom đạn nhưng vì trận tuyến tuyên truyền dai dẳng của thế giới tự do. CS Việt Nam sẽ không thoát được số mạng của những đồng chí đàn anh nếu một Mặt Trận Văn Hóa sớm thành hình để đấu tranh cho Dân chủ và Tự do bằng cách chuyển lửa về xứ. Napoléon đã từng đánh giá “cây bút có sức mạnh của một sư đoàn “ (nếu sâu sắc và xử dụng đúng mức). Ngày nay, để triệt cái ác của tập đoàn Marxist, văn hóa đấu tranh là ngòi thuốc nổ nguyên tử. Đây là đề tài của một bài kế tiếp.
Những cuộc cách mạng thành công bền vững trong lịch sử nhân loại không phải là những cuộc cách mạng đẫm máu nhất mà là những chiến thắng của lý trí và ý thức hệ.
LÂM LỄ TRINH
Thủy Hoa Trang
Huntington Beach
SOURCE: