Wednesday, January 22, 2020

HUẾ VẤN KHĂN TANG ...





Thành quách xưa lặng người theo hài cốt
Sân trường em chôn oan nghiệt dân lành
Trời vần vũ giữa bạo tàn: Cơn trốt
Xoáy đêm đen bao cái chết vội vàng

Trường vấy máu những học trò vô tội
Thầy mạng vong ngày Huế bị bủa vây
Dân ngơ ngác: Thoát ngõ nào. Nghẽn lối
Tiếng chân người: Bầy đao phủ về đây!

Anh lặng lẽ giọt lệ thầm nuốt nghẹn
Em điếng lòng thắp muộn nén nhang đau
Vợ thăm chồng: Mộ mới vừa vun quén
Chồng thẫn thờ... năm tháng đã qua mau

Huế vẫn mưa...mưa buồn như giọt lệ
Thấm đất mềm, ngõ ngách đất Thần kinh
Như giọng hò trên sông Hương của Mệ
Ray rứt sầu, đàn tế vạn sinh linh

Huế vẫn tím, vẫn buồn như tôn nữ
Vẫn quấn tang trong đêm cúng Giao thừa
Vẫn chưa quên những oan hồn uổng tử
Mạ vẫn buồn và hỏi "Con về chưa?"

Như Thương
(Giỗ Huế Mậu Thân 1968-2020)


.


Phụ chú: Tại sao xứ Huế buồn?

Thuận Hóa là địa danh hành  chính cũ của vùng đất bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Đây nguyên là đất các châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô, Châu Ri (hay Lý) của Chiêm Thành.
Mỵ Ê là Vương phi của Chiêm Thành vào thế kỷ XI. Bà là vợ của Quốc vương Chiêm Thành Sạ Đẩu (tức Jaya Sinhavarman II).
Vào năm 1044, Vua Lý Thái Tông của Đại Cồ Việt tiến đánh Chiêm Thành chiếm được thành Phật Thệ. Những chiến thuyền quân Nam lướt giòng Châu Giang, khi đến địa phận Phủ Lý, vua Thái Tông thấy Vương Phi Mỵ Ê có nhan sắc nên sai quan Trung Sứ mời nàng sang chầu Ngự Thuyền của vua. Trong lúc mọi người trong thuyền sơ ý, nàng lấy chăn quấn chặt vào người rồi nhảy xuống sông Châu Giang mà chết.
Tuy nhiên, theo như sử ghi lại Vương phi Mỵ Ê phải làm phi cho vua Thái Tông. Mỵ Ê xin được đi thuyền trên sông Hương đi về nhánh phụ lưu là sông Bồ để tưởng nhớ quê nhà và bà trầm mình ở khúc sông Bồ.
Một thời gian khá lâu khi tuổi đời ngày càng chồng chất, vua Thái Tông lại có dịp ngự thuyền trên Châu Giang, khi đến địa phận Phủ Lý nhà vua thấy trên bờ sông có một cái miếu thờ xinh đẹp, ngài bèn hỏi thì quân binh tả hữu tâu lại sự tình đó là miếu do dân cư quanh vùng lập nên để thờ tự Vương Phi Mỵ Ê Chiêm Thành đã tự vẫn dưới giòng sông trước đây.
Vua Thái Tông bèn phong cho nàng là Hiệp-Chính Nương. Ðến niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong cho Vương Phi Mỵ Ê là: Hiệp-Chính Hựu-Thiên Phu nhân. Ðến năm thứ tư thêm hai chữ "Trinh-Liệt, tức là Hiệp-Chánh Hựu-Thiên Trinh-Liệt Phu Nhân. Ðến năm Hưng Long 21 gia phong thêm hai chữ Chân Manh Hiệp Chánh Hựu Thiên Trinh Liệt Phu nhân.

Thi sĩ Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu đã viết bài “Từ Khúc”  để nói lên tâm sự của nàng Mỵ Ê:

Từ Khúc
Châu Giang một dải sông dài,
Thuyền ai than thở một người cung phi!
Ðồ Bàn thành phá hủy,
Ngọa Phật Tháp thiên di,
Thành tan Tháp đổ
Chàng tử biệt
Thiếp sinh ly
Sinh ký đau lòng kẻ tử qui!
Sóng bạc ngàn trùng,
Âm dương cách trở,
Chiên hồng một tấm
Phu thê xướng tùy.
Ôi mây! Ôi nước ! Ôi trời!
Đũa ngọc, mâm vàng, giọt lệ rơi.
Nước sông trong đục,
Lệ thiếp đầy vơi.
Bể bể dâu dâu khóc nỗi đời!
Trời ơi! Nước hỡi! Mây hời!
Nước chảy mây bay, Trời ở lại,
Ðể thiếp theo chàng mấy dặm khơi!

Tương truyền những buổi sáng sớm sương mù và đêm trăng thường nghe thấy có tiếng than ai oán ở khúc sông đó. Từ đó xứ Huế buồn...

Sources:
1/ Wikipedia

.